Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

Bánh Đa Cá Rô

Rô đồng là loại cá được chế biến thành nhiều món ăn hàng ngày như cá rán giòn chấm mắm cay, cá nướng cuốn lá mơ hay các loại bánh đa, bún, miến.

Ở Hà Nội không thiếu quán bún cá, trong các ngõ phố, chợ cóc cũng có nhưng hàng nổi tiếng thì không nhiều. Để có được bát bún ngon, chủ hàng cũng phải kỳ công trong chế biến. Nước dùng thường được ninh từ xương cá, thịt cá luộc tách xương cẩn thận, đen rán chín vàng. Nước dùng của món bún, bánh đa, miến này không bị béo ngậy như các món bún thịt khác.

Quán ngon có chuyển đi đâu, khách quen vẫn cố tìm được địa chỉ mới bởi không thể thay đổi được khẩu vị cũ. Dù chuyển từ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua nơi mới 74 Tuệ Tĩnh, quán canh cá rô đồng Quỳnh Côi (Thái Bình) trên đất Hà Nội vẫn nườm nượp khách.

Khách Hà thành lần đầu nhìn tên quán cũng có chút băn khoăn về cái tên "canh cá". Cũng có chút tương tự bánh canh hay canh bún trong Sài Gòn, canh cá là bánh đa cá chứ không phải là canh cá chua để ăn kèm với cơm trắng trong gia đình.

Điểm đặc biệt nhất của món ăn là bánh đa xuất phát từ miền đất Thái Bình vừa dai vừa mềm. Tuy nhiên, để đổi vị, bạn cũng có thể gọi bún, miến hay ăn bánh đa trộn. Nước dùng của nhà hàng có vị tương tự hàng bún cá Sâm cây Si trong ngõ Gia Ngư, có chút gừng, thì là nên rất thơm. Rau cải thìa được trần sẵn trong bát, ăn ngọt.

Cá rô, cá quả hay được sử dụng trong món bánh đa, bún cá.

bánh đa cá rô

Read more »

Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2013

Cháo Choạc Choạc

Không biết tạo hoá sinh thế nào mà khi còn sống, cái xương sống của con choạc choạc có thể gập đôi mà không gãy. Nó còn nhảy rất xa và khoẻ. Cũng vì vậy mà người miền núi cho rằng ăn chúng để trị chứng đau lưng, mỏi gối.

Choạc choạc ở miền Trung có thân hình như con chàng hiu, nhưng chàng hiu còn có con lớn, còn choạc choạc lớn lắm cũng chỉ độ hai ngón tay là cùng. Da có màu đất, hai sọc vàng chạy trên lưng là hoa văn đặc trưng của con choạc choạc. Thịt choạc choạc ăn rất ngon, mềm, ngọt, xương rất nhỏ và nhiều dinh dưỡng, khoáng chất.

cháo choạc choạc


Choạc choạc được chế biến nhiều món như xào lăn với sả, chiên giòn, um nguyên con… nhưng phổ biến vẫn là nấu cháo. Choạc choạc cắt đầu, lột da, bỏ ruột và bốn bàn chân, rửa sạch, đem băm nhuyễn, ướp gia vị như đường, bột ngọt, hành, tiêu đâm nhỏ và ít bột nêm. Bắc chảo lên bếp cho dầu ăn, cho củ tỏi hay củ nén vào phi thơm, cho từng viên thịt choạc choạc đã bằm nhuyễn vào xào cho chín. Nấu nồi cháo trắng vừa chín tới thì trút hết thịt choạc choạc đã xào vào và trộn đều. Chờ cháo sôi trở lại, nêm gia vị vừa ăn cùng với rau thơm như ngò tây, hành lá thái nhỏ và thêm ít tiêu xay bột. Từng tô cháo nóng được múc ra thơm phức, toả mùi thơm ngào ngạt.

Người Cơ Tu gọi con choạc choạc này là ađrúc và xem con này rất quý, chế biến thành các món ăn ngon như ađrúc nướng trong ống lồ ô, um, chiên đãi khách quý. Trong các đám cưới truyền thống người Cơ Tu, ađrúc um, ađrúc phơi khô là một trong những “tặng phẩm” mà họ hàng nhà gái mang đến tặng cho họ hàng nhà trai nhân tiệc mừng đám cưới.
Read more »

Mì Quảng

Mì Quảng “sợi nhớ, sợi thương”
 “Về Quảng Nam mà chưa ăn mì Quảng coi như chưa về”… Câu nói vui của cô chủ quán mì Quảng tốt bụng mà tôi ghé ăn trong những ngày "lang bạt" ở Quảng Nam ngẫm lại thấy đúng thật.

Từ lâu Mì Quảng đã được xem là đặc sản của vùng đất nơi đây. Không hiểu điều gì đã khiến cho món xì xụp này trở thành nét riêng biệt đến thế.

Ngay từ tên gọi đã nói lên xuất xứ, món mì Quảng dân dã này hiện hữu một cách tự nhiên trong đời sống hằng ngày của người dân Quảng Nam.
  
mì quảng

Sợi mì Quảng làm bằng bột gạo chứ không phải là bột mì như suy nghĩ của nhiều người thoạt đầu mới nghe tên. Có nhiều loại mì Quảng khác nhau dựa vào loại nguyên liệu nấu kèm: tôm, gà, thịt heo, thịt bò, cá lóc, cua,…

Ăn mì Quảng không thể thiếu rau sống. Mà rau sống để ăn cùng mì Quảng cũng phải được chuẩn bị cầu kì không kém.

Nếu như với những món ăn bình thường khác chỉ cần một dĩa rau với ít cọng bạc hà, xà lách để ăn kèm thì rau sống cho món ăn này cần tới 9 loại: bắp chuối, rau muống chẻ, giá, cải cay…

Có lẽ vì thế mà mì Quảng ăn không bị ngán hay cảm giác khô dù ít nước dùng. Một dĩa rau sống đủ loại, tươi non góp phần không nhỏ làm nên vị ngon cho bát mì.

Ai đó đã từng nói mì Quảng trước hết là món ăn no, sau mới đến món ăn chơi. Đơn giản vì mì Quảng vốn không phải là món ăn vặt.
mì quảng

Nhìn bát mì Quảng với những sợi mì vàng ươm xen lẫn tôm, trứng, thịt gà và lạc rang đang bốc khói nghi ngút khiến thực khách không khỏi thòm thèm. Thêm mấy chiếc bánh tráng nướng giòn nữa thì tuyệt phải biết. Ăn rồi vẫn muốn ăn thêm bát nữa.

Nếu như Hà Nội có phở thì người Quảng Nam tự hào nói rằng Quảng Nam có mì Quảng. Dân dã đấy, đơn giản đấy nhưng mà đi xa nhớ mãi không thôi.

Có lẽ một trong những lí do khiến nhiều khách khi về vẫn còn lưu luyến quay trở lại Quảng Nam chính là nhờ món mì với những “sợi nhớ, sợi thương” này.
Read more »

Bánh Bèo

Bánh bèo là một món bánh rất thịnh hành ở miền Trung, ngoài ra cũng có nhiều ở miền Nam Việt Nam.
Bánh bèo gồm có ba phần chính là bánh làm từ bột gạo, nhân để rắc lên bánh làm bằng tôm xay nhuyễn, và nước chấm, một hỗn hợp mà nước mắm là thành phần chính và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc...

bánh bèo

Tại miền Trung, bánh bèo thường được phân ra làm hai loại là bánh bèo Quảng Nam và bánh bèo Huế. Bánh bèo Quảng Nam thường thì bánh to, dày, ăn với nhân là bột nấu nhão gồm có thịt, tôm băm, hẹ, khi ăn bỏ thêm ít hành phi, ớt băm. Bánh bèo Huế có khác chút ít, bánh mỏng hơn, có bột tôm sấy, khi ăn kèm theo da heo chiên giòn. Bánh bèo miền Trung đa phần đúc bằng chén (bánh bèo chén). Sang tới miền Nam thì bánh bèo có nhiều kiểu cách khác nhau, nhưng thường là ăn chung với nhiều loại bánh cũng như gia vị khác, làm cho hương vị đặc trưng của bánh bèo mất đi phần nào.
Tên bánh bèo có thể xuất phát từ hình dạng của nó: giống như cái lá của cây bèo.

Theo hình dạng, có thể phân ra làm 2 loại là bánh bèo chén và bánh bèo nhỏ. Bánh bèo chén đúc bằng chén, bề ngoài to dày, thường thấy ở miền Trung; đặc biệt, ở xứ Quảng làm bánh bèo chén rất dày, cắn vào sừng sực mới chịu. Bánh bèo nhỏ đúc bằng vỉ nhôm, bề ngoài cái bánh thường nhỏ và mỏng, khi ăn trình bày nhiều cái ra dĩa.
Theo địa phương thì có thể phân ra làm nhiều loại:
Bánh bèo Huế, Bánh bèo Quảng Nam, Bánh bèo Quảng Ngãi, Bánh bèo Hội An (bánh bèo phố cổ), Bánh bèo Sài Gòn, Bánh bèo chợ Thủ, Bánh bèo Đà Nẵng, Bánh bèo số 4 (Đà Lạt).

Trong dân gian

Trong dân gian có lưu truyền nhiều bài ca dao, tục ngữ liên quan tới bánh bèo:
Ai ham trồng kiểng thì mê bánh bông lan
Còn như bánh tráng thì để hàng trai tơ
Ai mà hảo ngọt thì ăn bánh cam,
Ai mà nhát gan thì sợ bánh tét
Chỉ mấy ả giang hồ bánh bèo đớp sạch
Con quạ nó đứng chuồng heo
Nó kêu: bớ má, bánh bèo chín chưa ?

Ngoài ra còn có những bài đồng dao ngộ nghĩnh toàn chữ "b" về "Bà Ba béo", bán bánh bèo:
Bà Ba béo
bán bánh bèo
bên bờ biển
bả bị beo bập bụng
ba bốn bận
hay
Bà Ba béo
bán bánh bèo
bên bờ biển
bả bị bộ binh bắt bỏ bót...
Read more »

Ốc Sài Gòn

Từ lâu, Ốc là món ăn quen thuộc và đặc sản của người dân Sài gòn. Chẳng lạ gì với những hình ảnh quán ốc Sài Gòn là nơi tụ tập của bạn bè vui vẻ bên những món ốc thơm ngon, hấp dẫn sau một ngày làm việc, học tập vất vả .

 Thói quen đó hình thành, càng khuya người Sài Gòn càng thích đổ xổ ra đường tìm những quán ốc quen thuộc.

Không xô bồ, không náo nhiệt, là điểm hẹn quen thuộc của những người sành ăn ốc . Như bao quán ốc Sài Gòn khác ,  chuyên phục vụ các món ốc và cũng là quán hải sản với các món ăn tươi ngon nhưng với mức giá chỉ từ 25.000 đến 55.000 VNĐ cho 1 món ăn yêu thích mà chúng tôi thường gọi là quán ốc sinh viên, quán nhậu bình dân hay là quán ốc giá rẻ đều phù hợp cả.

Quán ốc Sài Gòn  mang không khí thoải mái, bàn ghế sạch sẽ, không gian thoáng mát . Thực đơn của quán đa dạng, phong phú . Đặc biệt nguyên liệu được lựa chọn kỹ , luôn tươi ngon và đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm .
Ốc cau


Ốc cau có hình dáng và kích thước "y xì" ốc cà na nên thỉnh thoảng bị một số người bán hay quán nhầm tưởng là ốc cà na. Thật ra,ốc cau có màu xám nhạt, khi rang trên lửa, nhiệt độ khiến vỏ ốc chuyển sang màu xám nhạt có vân mỡ gà. Khi thưởng thức, cảm quan của loại ốc này cũng khác hẳn với ốc cà na ở chỗ không thơm bằng nhưng bù lại có vị ngọt hơn, dai hơn cùng cảm giác sần sật khá lạ.

Ốc cau có giá 55.00 đồng/đĩa

Bù chằn


Bù chằn thật ra là tên gọi khác của ốc mượn hồn ở một vài địa phương tại Nha Trang và theo chia sẻ của chủ quán thì chỉ ốc mược hồn của một vài vùng ở đây là có thể chế biến thành món ăn.

Bù chằn thu hút thực khách ở những cặp càng bé xíu, đỏ au lấp ló bên trong những loại ốccó màu sắc, hình dáng khác nhau. Cách thưởng thức bù chằn khá lạ. Trước hết bạn phải cắn nhẹ vào phần bụng, cảm nhận cái béo, hương thơm sau tiếng bụp nhẹ, sau đó là cảm giác giòn rau ráu của những chiếc càng bé xíu, cái ngon, ngọt của phần thịt trắng phau, cực chất bên trong. Lời khuyên cho bạn khi thưởng thức bù chằn là vì đồng giá 100.000 đồng (khoảng 1kg) nhưng bù chằn xào bơ thơm, ngon hơn bù chằn nướng và bù chằn nhỏ dễ ăn, ngon miệng hơn bù chằn lớn.

Ốc Ken



Về căn bản, đây là loại ốc dường như chưa được đặt tên chính thức ở Quảng Ninh. Số lượng ốc này không nhiều và hiện chỉ có một quán thỉnh thoảng có hàng này là ốc Ken, nên được chủ quán gọi luôn là ốc Ken.

Cảm quan ban đầu về hình dáng, ốc Ken cũng thuôn dài khá lạ song khi thưởng thức, lại là thơm thơm, vị dai, giòn ngọt, đậm đà hơn ốc đỏ. Điểm nhấn lạ là khi kết đôi với ba loại nước chấm khác nhau (mắm chua cay, muối ớt xanh, muối tiêu chanh), cũng vị dai, ngọt, nhưng hương thơm của món ốc lại có sự biến hóa nhất định mà bạn có thể nhận thấy rõ rệt trên đầu lưỡi.

Hiện nay, mỗi phần ốc như thế có giá khoảng 60.000 đồng, không quá đắt so với mặt bằng chung và so với một món ốc ngon, lạ như thế.
Read more »

Cút Lộn Xào Me

Nói đến cút lộn xào me là người ta thường nghĩ ngay tới đất Sài thành - một trong những nơi được gọi là "đệ nhất ăn uống". Nhưng hiện nay món ngon, bổ, rẻ này đã và đang đổ bộ về Hà Nội và được nhiều người yêu thích nhất là giới trẻ ''Cút lộn xào me chấm bánh mì" nghe chẳng liên quan gì, ấy thế nhưng lại là món đắt khách nhất của quán.

cút lộn xào me,cút lộn

Cút lộn bình thường đã ngon, ngọt, mềm, vừa miếng nay lại được hòa quyện trong nước sốt me chua cay, ngòn ngọt, mằn mặn cùng với một lớp lạc, hành phi khô được phủ đều và bên trên cùng là chút rau răm không thể thiếu. Nếu chỉ dừng lại thế thôi, bạn sẽ cảm thấy ngầy ngậy, nhanh chán, đầy bụng.Vì vậy, một chiếc bánh mỳ nóng hổ,i giòn tan được chấm cùng với nước sốt me sẽ vừa có tác dụng giải ngấy, vừa làm bụng ấm hơn.


Có thể nói giới trẻ Hà thành cũng không kém cạnh gì các bạn trẻ Sài Gòn - nơi khởi nguồn của món 'cút lộn xào me" này. Trong bụng thì rủ nhau đi ăn ốc ấy thế nhưng miệng lại gọi ra mấy đĩa ốc xào me cho đỡ thèm thuồng cái hương vị chua chua, ngầy ngầy ngậy, bùi bùi, sóng sánh của món. Rồi họ lại rỉ tai nhau đến quán này, địa chỉ này mà thưởng thức và thể hiện sự sành ăn của mình.
Hiện nay, quán "Ốc Ken Sài Gòn" được các bạn trẻ rủ nhau đến thường xuyên và rất đông đúc. Vì vậy, bạn hãy thử một lần đến đây thưởng thức nhanh đi nhé!
Dễ ăn, hương vị là lạ, đậm đà, hay hay, cũng có khả năng làm bữa lót dạ thú vị, mà mức giá lại chưa tới 30.000 đồng. Đó chính là lí do khiến "cút lộn xào me chấm bánh mì" được ưu ái đến thế.
Read more »

Lẩu Cá Kèo Phương Nam

Món ăn phương Nam có sức hút kỳ lạ khi thời tiết lạnh hơn.
Nước lẩu chua chua, ăn bao nhiêu cũng không ngán.
Khác với đất Sài Gòn, lẩu hút khách quanh năm, ở Hà Nội, các teen mình chỉ ưa ngồi quanh nồi lẩu khi trời trở lạnh. Mỗi mùa đông tới, lại có thêm dăm kiểu lẩu mới xuất hiện, năm thì hot lẩu lòng, lẩu gà thuốc bắc, lúc lại là lẩu cháo, lẩu ếch... Đi đâu cũng thấy bạt ngàn các loại lẩu.

Tuy nhiên, có một loại lẩu là lẩu cá kèo thì không phát triển tràn lan mà chỉ có một số hàng làm thực sự chất, ăn thấy ổn. Món ăn này xuất phát từ mảnh đất miền Tây Nam Bộ, nơi vốn nổi tiếng với các loại đồ ăn thức uống tươi ngon. Nếu bạn nào có dịp đi du lịch ở Cần Thơ, Cà Mau, Bạc Liêu chắc chắn đều đã no nê với các món ăn nơi đây.


Gần đây, các món ăn miền Tây cũng nhanh chóng được người Hà Nội ưa chuộng bởi cách gia giảm vị chua cay rất gần với người Bắc. Tuy rằng, các loại rau ăn kèm, lượng cá trong nồi lẩu không được đầy đặn như ở nơi xuất xứ món ăn nhưng hương vị nước lẩu thì khá chuẩn. Bởi thế, dù giá cả lẩu ở Hà Nội đắt gấp đôi, gấp 3 so với Cần Thơ thì món ăn này vẫn thu hút rất đông khách. Nếu nồi lẩu 2-3 người ăn ở miền Tây có giá khoảng 100.000 đồng thì mức tiền phải bỏ ra ở Hà thành là 300.000 đồng (nồi 10 con cá). Chắc biết chuyện này, nhà mình lại muốn bay ngay vào Cần Thơ để tận hưởng lẩu cá kèo nhỉ, vừa tươi ngon, lại vừa rẻ hơn nhiều.

Nước lẩu cá kèo chua chua nhờ có vị lá giang nên có thể ăn hoài không ngán. Món ăn kèm thường là bún chứ không thấy hàng nào cho mì, miến cả. Các loại rau ăn kèm thường là rau muống, rau nhút, đậu bắp, hoa chuối thái mỏng...

Các loại rau nhúng kèm lẩu và mắm me để chấm cá.
Phải tới khi nồi lẩu được đưa ra, nhân viên nhà hàng mới trút cá kèo còn tươi sống cho vào nồi. Người mới ăn lần đầu nhìn cảnh cá còn sống giãy trong nồi sẽ có đôi phần e sợ. Thêm vào đó, cá lại nhỏ, da nhớt nên có đôi phần không được thu hút.

lẩu cá kèo

Tuy nhiên, chỉ cần đợi một chút cho cá chín, bạn sẽ cảm thấy mọi e ngại ban đầu tan biến sạch. Thịt cá mềm, ngọt hơi béo béo. Nhà hàng còn chuẩn bị sẵn nước chấm me chua chua, chà chà, cho cá vào đĩa mắm me cho ngấm đều vào thịt cá, ăn ngon phải biết.

Ở Hà Nội, bạn có thể thưởng thức món ăn này ở cửa hàng Con đường đặc sản, ở 99 Ngụy Như Kon Tum hoặc 71 Văn Cao hay Nhà hàng Phương Nam, số 2 ngõ 69 Chùa Láng.

Cá ngâm với nước mắm me đậm đà thơm ngon.

Đậu bắp, hoa chuối thái nhỏ, các loại rau đắng cho vào lẩu...Các loại rau ăn kèm,Bạn có thể gọi thêm bánh tráng cuốn thịt heo. Hay món bê thui cầu Mống của Quảng Ngãi ăn cũng rất ngon.

Nguồn:vnexpress.net
Read more »

Hủ Tiếu Nam Vang

Hủ tiếu Nam Vang là món hủ tiếu có nguồn gốc từ Campuchia nhưng do người Hoa chế biến, nguyên liệu chính là hủ tiếu khô, nước dùng chính là thịt bằm nhỏ, lòng heo nấu cùng. Sau đó trụng sơ mì với nước dùng sau đó cho các nguyên liệu phụ vào như giá, hẹ, thịt bằm cùng lòng heo vào. Đây được xem là món ăn mà ai khi đến Campuchia cũng phải thưởng thức. Tùy theo khẩu vị của từng người, có thể thay thế lòng heo bằng tôm, cua, mực v.v. nhưng nhất thiết phải có thịt bằm. Không giống như hủ tiếu Trung Hoa và hủ tiếu Mỹ Tho của Việt Nam, hủ tiếu Nam Vang có vị ngọt của nước lèo chính là thịt bằm nhỏ khá đặc biệt.

Nguyên liệu
Nguyên liệu làm hủ tiếu Nam Vang bao gồm hủ tiếu, các thành phần làm nước dùng (nước lèo), các thành phần cho vào tô hủ tiếu, các loại rau ăn kèm. Dưới đây là một công thức cho món hủ tiếu Nam vang với các thành phần và tỷ lệ cơ bản:
Xương heo (khoảng 1.5 kg); tôm thẻ (1/2 kg); gan heo (300g); thịt heo xay (300g); tôm khô (khoảng 1 nắm nhỏ); khô mực (1 con cỡ vừa); hủ tiếu bột lọc (có người gọi là hủ tiếu dai); dầu ăn; 1 củ tỏi; 4 tép hành lá; chanh; ngò ta (ngò gai); lá hẹ; giá đỗ; cần tây; rau tần ô; đường, muối, bột ngọt (nếu thích),
hủ tiếu nam vang,hủ tiếu

Quy trình thực hiện
Nấu nước lèo: Xương heo (nếu là xương ống thì trong hơn) trụng sơ nước sôi, đổ ra rửa sạch. Bắt 1 nồi nước khác lên đợi sôi rồi để xương vào, sau đó để 1 tí muối, đường phèn, khô mực nướng vừa chín xé làm bốn và tôm khô rửa sạch cùng bỏ vào nồi nước súp hầm với xương. Bỏ củ cải và cà rốt cắt khúc vào hầm mềm luôn. Sau đó nêm với đường, muối, bột ngọt, cho vừa ăn.
Gan heo: Đem luộc với một tí muối, khi chín vớt ra để nguội quấn trong cling phim khi nào ăn hãy xắt nếu không nó bị khô.

Tôm: Lột vỏ (chừa đuôi tôm lại), sau đó cắt ở sống lưng tôm, lấy chỉ đen ra.
Tỏi bằm ra cho thật nhỏ, bắt một cái nồi nhỏ lên bếp, để đầu vào, khi dầu sôi thì tỏi vào, lấy đũa quậy đều cho đến khi tỏi vừa hơi vàng thì tắt lửa và đem xuống khỏi lò (Khi đó dầu còn đang nóng sẽ làm cho tỏi vàng thêm tí nữa, nếu còn để trên bếp sẽ làm tỏi bị đen).
Thịt heo xay: Trộn thịt heo cho chút nước súp, bắt lên chảo xào cho đến khi ráo nước.
Rau: Cần tây, hẹ cắt khúc. Ớt tươi cắt mỏng, chanh cắt để ra dĩa cùng với giá, cần tây, rau tần ô, ngò gai, rau xà lách.

Luộc hủ tiếu và cho vào một cái tô sau đó cho chút tỏi phi vào trộn đều cho khỏi dính sau đó xếp lên tô: gan heo, tôm, thịt heo xaỵ, trứng cút. Nước súp đang sôi, để vào tô sau đó thì để lá hẹ, hành, ngò và và tỏi chấy lên trên mặt tô.

Khi nồi nước súp hoàn thành thì bỏ vào 1,2 muỗng tỏi phi thơm.
Tôm (thêm mực nếu thích tùy người) cho chút nước súp vào một nồi nhỏ nấu chín và sắp vào tô lấy nước luộc tôm mực đó cho vào luôn tô hủ tiếu.Ngoài gan heo có thể thêm cật và tim hủ tiều chính gốc tại Nam Vang (Phnôm Pênh).

Hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu Mỹ Tho và hủ tiếu của người Hoa có sự khác biệt rất rõ rệt. Nếu như hủ tiếu Nam Vang tôn trọng phụ liệu chính là lòng heo thì hủ tiếu Mỹ Tho lại có thêm tôm, mực, hải sản, ốc.Còn hủ tiếu Trung Hoa lại có vị béo của nước béo và thơm thơm của xì dầu. Dần dần, hủ tiếu Nam Vang dần mất đi cái gốc của nó, vì vậy muốn ăn hủ tiếu Nam Vang chỉ có đến Nam Vang (Phnôm Pênh) mới đúng gốc.
Read more »

Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

Cá Kèo Nướng Ống Tre

Cá kèo được xem là đặc sản của người miền Tây. Nhiều món ăn dân giã như lẩu cá kèo, cá kèo kho khô, gỏi cá kèo khô…đã trở nên rất đỗi thân quen. Nhưng nếu chưa một lần thưởng thức qua món cá kèo nướng ống tre, chắc chắn bạn chưa cảm nhận dư vị thơm ngon của loại cá đặc biệt này.

cá kèo nướng ống tre,cá kèo nướng

Sinh trưởng trong những vùng bãi bồi nước lợ vùng đồng bằng sông Cửu Long, cá kèo được coi là loại cá đặc sản của người dân miền Tây.

Hằng năm cứ vào mùa mưa, những hang ổ trú ngụ bị ngập nước, cá kèo bơi trồi khắp các kênh rạch, lúc này là mùa đánh bắt cá kèo rộ nhất trong năm. Cá kèo có dáng bơi khá đặc biệt, không chìm trong nước như các loại cá khác mà đầu cứ nổi lên khỏi mặt nước, thân dựng đứng dưới nước nên đồng bào miền Tây có câu thành ngữ vui “ngồi hạng ghế cá kèo” để tả cảnh đi coi hát mà không có ghế ngồi, phải đứng.

Tuy có rất nhiều ngoài tự nhiên và bây giờ đã được nuôi nhiều, nhưng cá kèo vẫn luôn là loại cá đắt tiền so với những giống cá xuất thân đồng ruộng khác. Có lẽ bởi thịt cá kèo rất ngon, lại chế biến được nhiều món bắt cơm như nấu canh chua, nướng, chiên, kho tộ, nấu lẩu chua cùng lá giang…

Ngoài các món thông thường, người miền Tây có món cá kèo nướng ống tre rất độc đáo. Những ống tre già được cắt khúc giữ lại hai đầu mấu hai bên rồi được bổ làm hai theo chiều dọc. Lót một ít rau răm dưới ống tre, đổ lên một chút dầu ăn để khi chín cá không bị dính thịt vào ống và giúp cá thấm gia vị, thêm vị béo.

cá kèo nướng muối ớt,cá kèo nướng

Cá kèo thả trong nước đá một lúc là chết, chỉ việc ướp thêm một chút tỏi, ớt, muối và chút xíu đường… vừa phải rồi đậy nửa ống tre kia lại, dùng dây kẽm siết chặt để cá không bị đổ ra ngoài. Lúc này chỉ việc bỏ ống tre cá kèo lên bếp than củi đang đỏ lửa, nướng trong 15 phút, thỉnh thoảng trở đều là cá chín.

Phần ngoài ống tre có bị cháy cũng không sao, vì tới khi cá chín phải rất lâu ống tre mới bị cháy tới phần đựng cá. Nước tre sôi xèo xèo hai bên đầu ống tạo cảm giác khá thú vị. Ống cá bắc khỏi bếp, vừa mở dây kẽm ra, một mùi thơm quyến cũ theo khe hở ống tre bốc lên như mời gọi mọi người mau thưởng thức.

Những con cá kèo đã chín toàn thân ướp màu đỏ của ớt bằm và màu xanh của rau răm trông rất bắt mắt.

Đặc biệt, mùi thơm của nước tre tiết ra từ ống quyện cùng các gia vị thấm vào con cá kèo làm món cá nướng ống tre có vị rất lạ. Thêm mùi thơm của rau răm, thứ rau hợp với cá kèo một cách kỳ lạ… Tất cả làm nên món cá kèo nướng ống tre ăn kèm cùng cơm ngon tuyệt.
Read more »

Bánh Xèo

Bánh xèo là một loại bánh Việt Nam, có bột bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá đỗ, được rán màu vàng, đúc thành hình tròn hoặc gấp lại thành hình bán nguyệt. Tuỳ theo từng địa phương tại Việt Nam mà bánh được thưởng thức với nét đặc trưng riêng. Thường có 2 phong cách: đổ bánh xèo giòn và bánh xèo dai.

Tại Huế, món ăn này thường được gọi là bánh khoái và thường kèm với thịt nướng, nước chấm là nước lèo gồm tương, gan, lạc. Tại miền Nam Việt Nam, bánh có cho thêm trứng và người ta ăn bánh xèo chấm nước mắm chua ngọt. Tại miền Bắc Việt Nam, nhân bánh xèo ngoài các thành phần như các nơi khác còn thêm củ đậu thái mỏng hoặc khoai môn thái sợi.

Các loại rau ăn kèm với bánh xèo rất đa dạng gồm rau diếp, cải xanh, rau diếp cá, tía tô, rau húng, lá quế, lá cơm nguội non... Ở Cần Thơ có thêm lá chiết, ở Đồng Tháp thêm lá bằng lăng, ở Vĩnh Long có thêm lá xoài non, ở Bạc Liêu có thêm lá cách. Cầu kỳ nhất là ở các vùng miền Trung Việt Nam, ngoài rau sống, còn thêm quả vả chát, khế chua .. Bởi vậy, dân sành ăn cứ thấy ngờ ngợ như món này thực sự được bắt nguồn từ Huế.

Bánh xèo Phan Thiết khác với bánh xèo ở những nơi khác là bánh nhỏ chỉ bằng cái lòng chén và không cuốn với rau xà lách mà thả vào tô nước mắm chín (nước mắm đã được giã với tỏi và ớt). Trên đường Tuyên Quang có nhiều quán bánh xèo rất ngon nên còn có tên là "phố bánh xèo".
Hoa sen tuy ở giữa chốn bình dị nhưng vẫn thể hiện sự thanh khiết, cao quí. Từ ý nghĩa đó, "bánh xèo hoa sen" tại Sài Gòn là một món ăn mới mà nghệ nhân Mười Xiềm đã chăm chút sáng tạo. Kết hợp nguyên liệu truyền thống cùng hạt sen, ngó sen, củ sen càng làm cho chiếc bánh xèo đậm đà tình quê. Bên cạnh đó, bánh xèo A Phủ, bánh xèo Đinh Công Tráng vẫn giữ được hương vị và phong cách riêng trên hai mươi năm qua.

bánh xèo

Bột gạo,nước cốt dừa, nghệ tươi ,gạo lúa thơm (gạo nàng Nhen-một loại gạo có tiếng của nông dân Campuchia) ngâm nước cho nở. Xong cho nghệ tươi (bánh sẽ ngon hơn so với dùng nghệ khô) hoặc nghệ bột (nếu là bột nghệ thì xay gạo xong hãy cho vào trộn chung với hỗn hợp gạo xay nhuyễn) vào, xay nhuyễn hỗn hợp bột gạo ngâm nở với nghệ tươi cắt nhỏ (có nơi dùng cối đá để xay).

Kế tiếp cho nước cốt dừa khô (dừa khô nạo nhuyễn cho nước ấm vào bóp sơ rồi vắt nước) vào hỗn hợp với bột đã xay xong, để khoảng 30 phút. Trước khi đổ bánh cho hành lá cắt nhỏ (khoảng 5 mm) vào hỗn hợp bột, trộn đều.

Phần nhân bánh gồm thịt ba rọi (thịt ba chỉ), khi luộc cho chút muối vào nồi, thái mỏng tôm (có thể thay thế bằng tép đồng) rồi xào sơ và cho chút muối với bột ngọt, đậu xanh đãi vỏ luộc chín (hoặc đậu xanh cà bỏ vỏ nấu vừa chín tới), giá, đậu xanh (có nơi dùng củ hũ dừa, là phần lõi non trên đầu của cây dừa, xắt nhuyễn).

Dùng chảo to để chiên bánh, trước khi đổ bột vào dùng một ít mỡ heo thoa đều cả chảo, rồi dùng giá múc một muỗng bột đổ vào chảo (trước khi cho bột vào hãy vặn lửa nhỏ, rồi sau khi cho bột vào mới vặn lửa to), sau đó dùng bắc nồi nghiêng chảo sao cho bột tráng đều chảo thành một hình tròn (lớp bột càng mỏng bánh càng giòn), đậy nắp lại đến khi bột hơi chín thì cho nhân vào phần giữa, đậy nắp lần nữa và chờ vài giây là bánh đã chín giòn.

Nước mắm để chấm với bánh xèo phải dùng nước mắm ngon pha với nước, nước cốt chanh (để ngon không nên dùng giấm), đường cát, một ít bột ngọt, cà rốt thái nhuyễn, ít ớt bằm nếu ăn cay.
Bánh xèo ăn bằng cách cuốn với rau bẹ rộng, thêm rau sống và chấm với nước mắm chua ngọt.
Read more »

Cơm Gà Phố Hội

“Cơm gà” là một món đặc sản của xứ Quảng mà nếu có dịp ghé qua thì bạn nên thưởng thức.


Chưa ăn cơm gà xem như chưa tới đất Quảng. Cách nói có phần cường điệu ấy có lẽ xuất phát từ lòng tự hào khi đề cập đến cơm gà – một thứ hương vị quê nhà đậm đà, khó quên của người dân phố Hội. Thế nhưng tiếng thơm của món cơm gà ấy còn được tạp chí du lịch nổi tiếng thế giới Lonely Planet đánh giá là: “Một món ăn đậm đà hương vị, một điều gì đó khiến những người yêu thích món gà phải ghé thử một lần…”

Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ nét riêng của cách chế biến thịt gà theo “gu” miền Trung, nghĩa là gà xé nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm là khiến miếng thịt mang hương vị thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và mất mùi gà.



Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ nét riêng của cách chế biến thịt gà theo “gu” miền Trung, nghĩa là gà xé nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm là khiến miếng thịt mang hương vị thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và mất mùi gà.

Có một cách khác làm món cơm gà, nhưng người vùng Tam Kỳ - Quảng Nam hay Đà Nẵng mới thường chế biến theo cách này. Thịt gà không chỉ luộc, xé sợi mà được chặt thành từng miếng vừa phải, chiên vàng giòn. Cơm có màu cam đỏ của trái gấc chín trông rất bắt mắt. Và theo đúng điệu “con gà cục tác lá chanh”, món ăn được trình bày kèm lá chanh xắt nhuyễn. Cách này gần giống “gu” miền Bắc, nhưng không vì thế mà đĩa cơm gà mất “chất” Trung với những hạt cơm đỏ cam nấu từ nước dùng gà, với hương vị riêng của đĩa đu đủ muối chua kết hợp với tương ớt và xì dầu.

Cơm gà thật sự là một món ăn ngon đặc trưng của vùng Quảng Nam-Đà Nẵng, được bán nhiều trên các ngả phố...Với các quán cơm và gánh cơm nổi tiếng như cơm gà bà Bụi, cơm gà bà Minh, cơm gà kiệt Cika ở Hội An hay cơm gà Hồng Ngọc, Hải ở Đà Nẵng... Người ăn đến đây để thưởng thức món cơm gà “chính gốc”, với đầy đủ gà xé, gà rô ti ăn kèm với hành tây, lá chanh, bạc hà, dưa chua đu đủ. Thưởng thức món “cơm gà Hội An” thì bất cứ ai dù kén ăn nhất cũng phải gật đầu khen ngon.
nguon: monngondanang.com
Read more »

Cao Lầu Hội An

Cao lầu là tên một món mỳ ở Hội An. Đây được xem là món ăn đặc sản của thị xã Hội An. Món mỳ này có sợi mỳ màu vàng, được dùng với tôm, thịt heo, các loại rau sống và rất ít nước dùng. Sợi mỳ màu vàng là do được trộn với tro một loại cây ở địa phương.

Cao lầu, món ăn độc đáo gắn liền với phố cổ Hội An. Mới nhìn cao lầu trông giống như mì, nhưng không phải mì. Người ta ít biết đến cao lầu không phải vì nó không ngon mà vì món ngon này khiêm nhường. Nhiều người cho rằng món này của người Hoa, nhưng Hoa kiều ở đây lại không công nhận nó. Còn người Nhật thì cho rằng nó giống mỳ udon của họ nhưng khác về hương vị và cách chế biến.
cao lầu hội an,cao lầu

Tinh túy của món cao lầu là sợi mì, thường được chế biến rất công phu. Đầu tiên, gạo thơm đem ngâm vào nước tro, mà phải là tro nấu củi lấy ở tận Cù lao Chàm, đảo cách Hội An 16 km, khi ngâm mới tạo ra được sợi mì có độ giòn, dẻo, và khô. Sau đó lọc kỹ, xay thành bột; nước xay gạo phải là nước ở giếng Bá Lễ do người Chăm làm cách đây cả ngàn năm, mới được nước ngọt, không bị phèn và mát lạnh. Tiếp tục dùng vải bòng nhiều lần cho bột dẻo, khô, cán thành miếng vừa cô, xắt thành từng sợi, đem hấp nhiều lần rồi phơi khô để làm sợi mì. Qua nhiều lần xử lý như vậy nên dù cao lầu có để qua đêm cũng không sợ ôi thiu.

Người ta thường ăn cao lầu với giá trụng nước sôi nhưng không được quá mềm. Thêm ít rau sống, được lấy ở làng rau truyền thống Trà Quế nổi tiếng ở Hội An. Giá trụng đổ ra tô, xếp mì lên trên, thêm vài lát thịt xíu rồi đổ tép mỡ (da heo chiên giòn) và một muỗng mỡ heo rán để sẵn bên lò nước. Với thịt xíu, chỉ dùng thịt heo cỏ, thịt săn chắc, thơm, vừa mỏng da vừa nhiều nạc và nước của nó mới có vị ngọt. Khi ăn, cao lầu cho cảm giác sựt sựt của sợi mì, đủ mùi vị chua, cay, đắng, chát, ngọt của rau sống, hương vị của mắm, bột thơm, nước tương... và tép mỡ vỡ tan trong miệng.

Nhiều người cũng có tham vọng làm cao lầu ở nơi khác, nhưng tất cả đều thất bại. Có người nói rằng chính nước giếng Bá Lễ và tro của cù lao Chàm và rau sống Trà Quế mới làm nên món ẩm thực đặc trưng này.

Một đặc trưng khác của cao lầu là muốn ăn món này phải leo lên lầu cao của quán. Khi xưa các doanh nhân buôn bán nơi phố cảng vì muốn trông coi hàng hóa của mình nên thường leo lên lầu cao của quán. Điều này có thế thấy ở các quán cao lầu Hội An. Ngồi trên lầu cao ngắm cảnh đẹp và thưởng thức món ngon, đây có thể là xuất phát của tên gọi cao lầu.
Ngày nay cao lầu có ở Pháp, Anh, Úc hay Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn nhưng nhiều người ăn vào vẫn thấy như không phải. Thậm chí cao lầu được làm ở Hội An, gửi máy bay đến các nơi nhưng dường như ăn ở Hội An thì mới đúng điệu cao lầu.
Read more »

GIới Thiệu Về Ẩm Thực Việt Nam

Ẩm thực Việt Nam là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị và những thói quen ăn uống nói chung của mọi người Việt trên đất nước Việt Nam. Tuy hầu như có ít nhiều có sự khác biệt, ẩm thực Việt Nam vẫn bao hàm ý nghĩa khái quát nhất để chỉ tất cả những món ăn phổ biến trong cộng đồng các dân tộc thiểu số nhưng đã tương đối phổ thông trong cộng đồng người Việt.

Đặc điểm

Đặc điểm chung
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau (luộc, xào, làm dưa, ăn sống); nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò v.v. 
bún chả hà nội,bún chả

Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như thịt chó, thịt dê, thịt rùa, thịt rắn, thịt ba ba... thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại thực vật, không có nguồn thực phẩm từ động vật. Tuy nhiên, trong cộng đồng thì lại có rất ít người ăn chay trường, chỉ có các sư sãi trong các chùa hoặc người bị bệnh nặng buộc phải ăn kiêng.

Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác: ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo (ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật ...).
Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới: món ăn Trung Hoa ăn bổ dưỡng, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ăn Nhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này ngày càng phai nhòa trong thời hội nhập.

Theo ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng:
Tính hoà đồng hay đa dạng
Tính ít mỡ.
Tính đậm đà hương vị
Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.
Tính ngon và lành
Tính dùng đũa.
Tính cộng đồng hay tính tập thể
Tính hiếu khách, và
Tính dọn thành mâm.
Nguyên tắc phối hợp
Ẩm thực Việt Nam đặc trưng với sự trung dung trong cách pha trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị) để chế biến món ăn Việt Nam vô cùng phong phú, bao gồm:

Nhiều loại rau thơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu v.v.;
Gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non;
Gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa...
Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn: người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối bữa. 

Một nét đặc biệt khác của ẩm thực Việt Nam mà các nước khác, nhất là nước phương Tây không có chính là gia vị nước mắm. Nước mắm được sử dụng thường xuyên trong hầu hết các món ăn của người Việt. Ngoài ra còn có các loại nước chấm như tương bần, xì dầu (làm từ đậu nành). Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm, từ xưa đến nay làm khẩu vị đậm đà hơn, món ăn có hương vị đặc trưng hơn và biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt.

Ẩm thực Việt Nam tuân theo hai nguyên lý là Âm dương phối triển và Ngũ hành tương sinh.
Âm dương phối triển
Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau, như món ăn dễ gây lạnh bụng (tính hàn) buộc phải có gia vị cay nóng (tính nhiệt) đi kèm và ngược lại. Các nguyên liệu tính nóng (ấm) phải được nấu cùng nguyên liệu tính lạnh (mát) để tạo sự cân bằng cho món ăn.

Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ví dụ:

Thịt vịt tính "lạnh", thích hợp ăn vào mùa hè với nước mắm gừng, tính "nóng". Mặt khác, thịt gà và thịt lợn tính "ấm" thích hợp ăn vào mùa đông (trước đây thường chỉ khi đến Tết mới làm thịt lợn, thịt gà).

Thủy sản các loại từ "mát" đến "lạnh" rất thích hợp để sử dụng với gừng, sả, tỏi("ấm").
Thức ăn cay ("nóng") thường được cân bằng với vị chua, được coi là ("mát")
Trứng vịt lộn ("lạnh"), phải kết hợp với rau răm ("nóng").
Bệnh nhân cúm và cảm lạnh phải uống nước gừng, xông bằng lá sả, lá bưởi ("nóng").


Đặc điểm theo vùng miền, dân tộc
Tuy có những nét chung nói trên, ẩm thực Việt Nam có đặc điểm khác nhau theo từng vùng, mặc dù trong từng vùng này ẩm thực của các tiểu vùng cũng thể hiện nét đặc trưng:

Ẩm thực miền Bắc
Ẩm thực miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá, trai, hến v.v. và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao Ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, bún thang, bún chả, các món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị đặc sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng.

Ẩm thực miền Nam
Ẩm thực miền Nam, là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của ẩm thực Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, có đặc điểm là thường gia thêm đường và hay sử dụng sữa dừa (nước cốt và nước dão của dừa). Nền ẩm thực này cũng sản sinh ra vô số loại mắm khô (như mắm cá sặc, mắm bò hóc, mắm ba khía v.v.). Ẩm thực miền Nam cũng dùng nhiều đồ hải sản nước mặn và nước lợ hơn miền Bắc (các loại cá, tôm, cua, ốc biển), và rất đặc biệt với những món ăn dân dã, đặc thù của một thời đi mở cõi, hiện nay nhiều khi đã trở thành đặc sản: chuột đồng khìa nước dừa, dơi quạ hấp chao, rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh, đuông dừa, đuông đất hoặc đuông chà là, vọp chong, cá lóc nướng trui v.v.

Ẩm thực miền Trung
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm. Các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tôm chua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương không có nhiều sản vật mà ẩm thực hoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món khác nhau.

Ẩm thực các dân tộc thiểu số Việt Nam
Với 54 dân tộc sống trên nhiều vùng địa lý đa dạng khắp toàn quốc, ẩm thực của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có bản sắc riêng biệt. Rất nhiều món trong số đó ít được biết đến tại các dân tộc khác, như các món thịt lợn sống trộn phèo non của các dân tộc Tây Nguyên. Tuy nhiên, nhiều món ăn đã trở thành đặc sản trên đất nước Việt Nam và được nhiều người biết đến, như mắm bò hóc miền Nam, bánh cuốn trứng (Cao Bằng, Lạng Sơn), bánh coóng phù (dân tộc Tày), lợn sữa và vịt quay móc mật, khau nhục Lạng Sơn, phở chua, cháo nhộng ong, phở cốn sủi, thắng cố, các món xôi nếp nương của người Thái, thịt chua Thanh Sơn Phú Thọ v.v.

Ẩm thực Việt Nam trên thế giới
Theo bước chân của người Việt đến khắp thế giới, ẩm thực Việt với tất cả những nét đặc sắc của nó dần được biết tới nhiều ở các nước khác như Hàn Quốc, Lào, Trung Quốc và các nước châu Âu có cộng đồng người Việt ngụ cư. Có thể dễ dàng tìm thấy các tiệm ăn Việt Nam ở Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc, Cộng hoà Séc, Đức, Ba Lan và Nga. Các món ăn thuần Việt như phở, nem rán và các loại hương liệu đặc biệt như mắm tôm, rau húng rất phổ biến ở những vùng có đông người châu Á, trong đó có người Việt, sinh sống. Tuy nhiên ẩm thực Việt Nam tại các nước trên thế giới đã ít nhiều lai tạp với ẩm thực bản địa, hoặc đã gia giảm, thay đổi để phù hợp hơn với khẩu vị của cộng đồng dân cư khắp thế giới.
Read more »

Bún Chả Hà Nội

Bún chả là món ăn Hà Nội, ở một phương diện nào đó khá tương tự món bún thịt nướng Huế.

Nguyên liệu và cách thức chế biến 

Bún chả thường có có cùng một lúc hai loại chả: Chả viên và chả miếng. Chả viên được làm từ thịt nạc vai lợn băm thật nhuyễn nặn viên, ướp trộn với muối, tiêu, nước mắm trên 35 độ đạm, đường, hành khô băm thật nhuyễn, dầu thực vật hoặc mỡ nước. Tùy vào độ tươi của thịt, sau khi trộn gia vị nếu thấy thịt có vẻ hơi khô thì cho thêm một chút dầu sao cho miếng thịt dễ dàng kết dính khi vo nắn thành miếng cỡ 2 ngón tay rồi nhấn cho hơi dẹp lại. Nếu thích cầu kỳ hơn thì gói ngang mỗi miếng chả là một lần lá chuối rồi mới nướng, miếng chả sẽ không bị sạm và thơm hơn. Dùng thịt nạc vai để làm món chả là một lựa chọn tinh tế đã có truyền thống vì nạc vai chắc thịt nhưng không có sớ nhiều như thịt đùi, không mềm như thịt mông...điều này làm cho miếng thịt khi băm nhuyễn rồi nắn lại, miếng chả chắc hơn là dùng những phần thịt khác.

bún chả hà nội,bún chả

Còn chả miếng thường dùng thịt ba chỉ (ba rọi) thái mỏng ướp gia vị tương tự chả viên và nướng vàng trên than củi. Tuỳ theo khẩu vị của mỗi người, có thể gọi toàn chả miếng hoặc chả viên để ăn cùng Bún chả. Thịt miếng thường được lọc bỏ bì (da) để khi nướng không bị cứng và khét. Nếu dùng thịt nạc quá (thịt mông, thịt thăn) khi nướng sẽ không ngon vì chả bị khô và cứng
Thịt sau khi ướp được xếp vào xiên hoặc vỉ, nướng trên than củi. Khi thịt chín thơm và ngậy mùi, cho vào bát nước mắm pha loãng có đầy đủ gia vị ngọt, chua, cay, cùng với su hào (hoặc đu đủ xanh), cà rốt trộn dấm. Có thể vừa ăn vừa húp được, ăn cùng với bún và rau sống (gồm rau xà lách, rau thơm, húng Láng, kinh giới, tía tô, rau giá).


Ngày nay, bún trong bún chả là bún rối. Nhưng bún con (từng vắt bún nhỏ cuộn chặt, vừa một lần gắp) mới là nguyên liệu truyền thống. Những hàng bún chả bán rong với nước mắm thoảng chút hương cà cuống và những lá bún là một phần của Hà Nội xưa, được nhiều nhà văn như Vũ Bằng, Thạch Lam ca ngợi.

Cách làm bún chả đơn giản, nhưng để làm được bát bún chả ngon còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và bí quyết gia truyền, đặc biệt quan trọng là cách pha nước chấm. Điều này giải thích vì sao ăn bún chả Hà Nội sẽ khác hẳn so với ăn món này ở nhiều nơi khác.
Nhiều hàng quà này ở Hà Nội kết hợp bán bún chả với nem cua bể và món bún chả thường được thưởng thức với bia hơi.

Ngày nay - người Hà Nội thường chỉ ăn bún chả vào bữa trưa, và đôi khi, vào bữa chiều, còn ở TP Hồ Chí Minh, bún chả có thể được thưởng thức vào tất cả các bữa trong ngày.
Bún chả trong văn học 

Trong cuốn 36 phố phường Hà Nội, Thạch Lam đã viết về sự hấp dẫn của món bún chả như sau:
“...Có một ông đồ cuồng chữ ở nhà quê, một hôm khăn gói lên Hà Nội đã ứng khẩu đọc hai câu thơ khi ngửi thấy mùi khói chả:
Ngàn năm bửu vật đất Thăng Long.
Bún chả là đây có phải không?..."
Read more »

Bánh Cuốn Thanh Trì

Bánh cuốn là loại bánh làm từ bột gạo hấp tráng mỏng, để ăn khi còn ướt, bên trong cuốn nhân (trường hợp không cuốn nhân ở Miền Nam gọi là bánh ướt) Bánh thường ăn với một loại nước chấm pha nhạt từ nước mắm và nếu là bánh cuốn truyền thống thì không thể thiếu tinh dầu cà cuống pha trong nước chấm khi ăn thường kèm thêm chả lợn.

bánh cuốn thanh trì, bánh cuốn

Gạo ngon, xay mịn, hòa với nước. Đặt nồi hấp, căng vải mỏng trên miệng nồi. Mỗi lần cho một muôi bột nhỏ. xoa đều lên bề mặt miếng vải để lá bánh cuốn được mỏng, có thể thoa thêm chút mỡ để dễ lấy ra.

Sau khi bánh chín, dùng đũa to hoặc thanh tre gạt ra đĩa, lúc này có thể cuộn thêm nhân gồm một ít thịt vai nửa nạc nửa mỡ, tôm, băm cùng mộc nhĩ, nấm hương đã xào chín với các gia vị như mắm, hạt tiêu... Rắc thêm hành khô phi thơm và dùng với nước chấm đủ các vị chua, cay, mặn, ngọt.

Bánh cuốn Thanh Trì
Bánh cuốn Thanh Trì là món ăn nổi tiếng của người Hà Nội, là đặc sản của phường Thanh Trì, Quận Hoàng Mai, Hà Nội. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy.
Bánh cuốn Thanh Trì không có nhân, thường được xếp thành từng lớp trong lòng một chiếc thúng, trên phủ tờ lá sen hay lá chuối, lá dong. Người bán bánh thường đội thúng bánh trên đầu, di dạo bán trên phố phường Hà Nội. 

Khi gặp người mua, người bán hàng sẽ hạ thúng xuống, lần giở từng lớp bánh cuốn mỏng, tách từng lớp bánh sao lá bánh cuốn khỏi bị rách. Trên mặt lá bánh cuốn điểm những cọng hành lá màu vàng, nâu đã được phi qua trên chảo. Mỗi lớp bánh cuốn đó sẽ được sắp xếp gọn lại trên đĩa, lần lượt từng miếng bánh một được đặt cạnh nhau. Sau đó, với một nhát kéo, tất cả các lá bánh cuốn được cắt đôi. Công việc tiếp theo là nhấc một nửa đầu bánh cuốn mới cắt đó, đặt lên trên nửa kia để người thưởng thức có thể nhìn thấy rõ từng lớp bánh cuốn tráng mỏng như giấy. Bánh được ăn với thứ nước chấm đặc trưng cho từng người bán bánh riêng, có thể ăn kèm chả quế, giò lụa hoặc đậu rán và rau mùi.
Read more »

Phở Hà Nội Xưa Và Nay

Nhà văn Thạch Lam viết trong cuốn Hà Nội Băm Mươi Sáu Phố Phường:
"Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Phở ngon phải là phở "cổ điển", nấu bằng thịt bò,"nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả", "rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ". Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: "Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối...."


Quán phở đường phố tại Hà Nội
Ở Hà Nội, phở là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội không biết đã có từ bao giờ. Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái.

Từ giữa những năm 1960 đến trước những năm 1990 của thế kỷ 20, vì nhiều lý do nhất là khâu quản lý hành chính bao cấp về lương thực, thực phẩm, tại Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc xuất hiện "phở không người lái" (phở không thịt) trong các cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Cũng từ thời bao cấp, ở Hà Nội, người ta thường có thói quen cho thêm nhiều mì chính vào nước dùng. Cùng với thời đổi mới từ thập niên 90, phở đã phong phú hơn và người Hà Nội thường ăn phở với những miếng quẩy nhỏ (từ thập kỷ 60 đến giữa thập kỷ 80 nhưng do ở giai đoạn khó khăn nên quẩy bị mất đi khoảng 1995 quẩy đã quay trở lại).

Những hiệu phở ở Hà Nội đã lưu truyền 3 đời như: phở Phú Xuân ở phố Hàng Da vốn là những người gốc làng Phú Gia, Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội, phở "Bắc Nam" ở phố Hai Bà Trưng; phở gà "Nam Ngư", phở "Thìn", phở "Số 10 Lý Quốc Sư"... Ngoài các quán hàng phở cố định, Hà Nội một thời còn có "phở gánh". Đó là những người bán phở dạo.

Trên đôi quang gánh của họ, một bên là thùng hàng tự chế có đủ nguyên liệu để chế biến món phở và bát, đĩa, đũa, thìa; bên kia là nồi nước dùng đặt trên một bếp than. Trước năm 1980, những gánh phở như vậy đã đi khắp các hàng cùng ngõ hẻm của Hà Nội với những tiếng rao quen thuộc của văn hóa ẩm thực về đêm của Hà Thành. Ngày nay, khi xã hội phát triển, quán ăn nhiều lên thì "phở gánh" ngày càng ít xuất hiện.
Read more »